Binh nghiệp Lê Thùy

Sau Cách mạng tháng Tám, ông tiếp tục hoạt động trong quân đội. Tháng 5 năm 1948, Trung đoàn 165 được thành lập ở thôn Tông Áng, xã Khánh Thiện, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái. Ông trở thành Trung đoàn trưởng Trung đoàn 165.[1] Năm 1950, Đại đoàn 312 thành lập, sau Chiến dịch Trần Hưng Đạo, Trung đoàn 165 được biên chế vào Đại đoàn 312. Ông được phong hàm Đại tá.

Dưới sự chỉ huy của ông, Trung đoàn 165 đã tham gia nhiều trận đánh, chiến dịch quan trọng như giải phóng Yên Bình xã - Nghĩa Đô, giải phóng huyện Bắc Hà, giải phóng tỉnh lỵ Lào Cai, Chiến dịch Lê Hồng Phong, Chiến dịch Hòa Bình, Chiến dịch Lý Thường Kiệt, Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông bị thương nặng và được bác sĩ Trần Minh Quang cứu trị.[2]

Năm 1955, Sư đoàn 335 thành lập từ ba Trung đoàn quân tình nguyện Việt Nam ở Lào là Trung đoàn 280, Trung đoàn 673 và Trung đoàn 83, ông trở thành Sư đoàn trưởng Sư đoàn. Năm 1958, ông chỉ huy Trung đoàn 280 khai phá khu vực cao nguyên Mộc Châu, tiền đề hình thành lên Thị trấn Nông trường Mộc Châu.[3] Về sau, ông được chuyển làm Sư đoàn trưởng Sư đoàn 316, rồi Tham mưu trưởng, Phó Tư lệnh, Tư lệnh Quân khu Tây Bắc.[4] Năm 1974, ông được phong hàm Thiếu tướng. Trong thời gian này, ông đã chỉ huy đơn vị hỗ trợ cho lực lượng Pathet Lào.[5]

Sau kháng chiến chống Mỹ, năm 1976, Quân khu Tây Bắc được sáp nhập thành Quân khu 1, ông trở thành Phó Tư lệnh Quân khu 1.[6] Năm 1978, ông được thăng hàm Trung tướng. Khi Quân khu 2 được tái lập, ông được điều về làm Phó Tư lệnh Quân khu trước khi nghỉ hưu.

Ông mất năm 1999.